Báo cáo của Bộ GTVT cho biết Việt Nam phấn đấu khởi công tuyến đường sắt cao tốc Bắc – Nam trong năm 2027, hoàn thành toàn tuyến năm 2035.
Trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) cho biết dự án được đề xuất đầu tư với chiều dài 1.541km, quy mô đường đôi, khổ 1.435mm, điện khí hóa, hạ tầng thiết kế với tốc độ 350km/h, bố trí 23 ga hành khách với cự ly trung bình khoảng 67km, 5 ga hàng gắn với các đầu mối hàng hóa. Sơ bộ xác định tổng mức đầu tư dự án khoảng 67,34 tỷ USD.
Bộ đặt mục tiêu trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư tại kỳ họp tháng 10.2024; đấu thầu lựa chọn tư vấn quốc tế, triển khai khảo sát, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trong năm 2025-2026; triển khai giải phóng mặt bằng, đấu thầu lựa chọn nhà thầu và khởi công các dự án thành phần đoạn Hà Nội-Vinh và Nha Trang-TPHCM cuối năm 2027; khởi công các dự án thành phần đoạn Vinh-Nha Trang năm 2028-2029 và phấn đấu hoàn thành đầu tư toàn tuyến năm 2035.
Vậy Bộ GTVT đã đưa ra các giải pháp gì để xây “thần tốc” 1.541km đường sắt tốc độ cao 67,3 tỷ đô trong 8 năm?
Huy động vốn đầu tư công- ‘chìa khóa’ giúp đẩy nhanh tiến độ
Theo báo cáo của Bộ GTVT, dự kiến nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn để đầu tư hoàn thành dự án vào năm 2035. Với tổng số vốn 67,3 tỷ USD, bố trí vốn bình quân mỗi năm khoảng 5,6 tỷ USD.
Bên cạnh đó, theo lý giải của Bộ này, trong nhiệm kỳ này đã hoàn thành đầu tư 3.000km và đang triển khai khoảng 1700km đường bộ cao tốc, do đó áp lực đầu tư đến năm 2030 đạt 5.000km đường bộ cao tốc theo Nghị quyết Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XIII không lớn, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn tới có thể cân đổi đầu tư dự án, tác động không lớn đến các công trình quan trọng quốc gia khác.
Sở dĩ Bộ GTVT đề xuất hình thức đầu tư công để thực hiện dự án bởi loại hình này có nhiều ưu điểm giúp thực hiện nhanh các dự án lớn như đường sắt tốc độ cao, đặc biệt trong bối cảnh yêu cầu thời gian thực hiện gấp rút.
Vốn đầu tư công thường được Nhà nước đảm bảo và cam kết phân bổ từ ngân sách quốc gia, điều này giúp dự án không gặp trở ngại về nguồn vốn, giảm thiểu rủi ro gián đoạn tài chính. Với các dự án lớn như đường sắt tốc độ cao, tính ổn định và an toàn về vốn giúp tiến độ thực hiện dự án nhanh chóng hơn.
Nhà nước có khả năng huy động nguồn vốn lớn thông qua các kênh như ngân sách, trái phiếu Chính phủ, hoặc từ các tổ chức quốc tế (như Ngân hàng Thế giới hoặc Ngân hàng Phát triển Châu Á). Điều này giúp đáp ứng được yêu cầu vốn cao của các dự án hạ tầng quy mô lớn.
Hơn nữa, vốn đầu tư công thường ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thị trường tài chính như lãi suất, biến động kinh tế, hoặc đầu cơ. Điều này tạo sự an toàn và ổn định cho dự án, giúp quá trình triển khai không bị gián đoạn bởi các yếu tố bên ngoài.
Khi dự án được thực hiện bằng vốn đầu tư công, các cơ quan nhà nước thường có vai trò lớn trong việc điều hành và quản lý dự án. Điều này giúp đảm bảo sự đồng bộ, minh bạch và hiệu quả trong quá trình thực hiện, từ khâu chuẩn bị, thi công đến hoàn thành.
Các dự án hạ tầng quan trọng như đường sắt tốc độ cao có ý nghĩa chiến lược cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Khi sử dụng vốn đầu tư công, dự án sẽ được ưu tiên trong việc triển khai nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và liên kết vùng.
Chia nhỏ thành 4 dự án để dễ thi công và giảm phụ thuộc
Ngoài giải pháp đầu tư công thì việc chia nhỏ dự án lớn thành 4 dự án thành phần cũng được xem là phương pháp tối ưu giúp rút ngắn thời gian xây dựng. Cụ thể, Bộ GTVT, đã đưa ra phương án phân chia dự kiến của Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam là chia làm 4 dự án thành phần là 4 đoạn tuyến, gồm: Hà Nội – Vinh (chiều dài khoảng 281km); Vinh – Đà Nẵng (chiều dài khoảng 420km); Đà Nẵng – Nha Trang (chiều dài khoảng 480km); Nha Trang – TP.HCM (chiều dài khoảng 360km).
Dự án này có chiều dài lớn, việc nghiên cứu phân chia dự án thành phần được thực hiện sẽ giúp bảo đảm tính đặc thù về yêu cầu đồng bộ hệ thống, đặc biệt là hệ thống thông tin tín hiệu, phương tiện, thiết bị; bảo đảm lựa chọn một công nghệ cho toàn tuyến, thuận lợi chuyển giao công nghệ; đẩy nhanh tiến độ thực hiện đầu tư.
Bằng cách chia thành các dự án nhỏ hơn, việc thực hiện có thể diễn ra đồng thời ở nhiều khu vực khác nhau, tránh tình trạng chờ đợi khi một phần của tuyến chưa hoàn thành. Mỗi dự án thành phần có thể được điều chỉnh để phù hợp với tình hình địa phương, nhu cầu và ưu tiên của từng khu vực, giúp việc giải phóng mặt bằng, cấp phép và triển khai diễn ra nhanh chóng hơn.
Điều này giúp các đoạn tuyến không phụ thuộc quá nhiều vào nhau, tạo điều kiện để những dự án thành phần nào sẵn sàng trước có thể được khởi công và hoàn thiện nhanh hơn.
Việc chia nhỏ dự án giúp chính phủ và các nhà thầu dễ dàng hơn trong việc phân bổ nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài chính) cho từng dự án thành phần, thay vì phải chờ đợi để có đầy đủ nguồn lực cho toàn bộ tuyến đường. Điều này cũng giúp giảm bớt áp lực tài chính bằng cách huy động vốn theo từng giai đoạn.
Khi dự án được chia nhỏ, nhiều nhà thầu có thể tham gia đồng thời vào các dự án thành phần khác nhau. Điều này không chỉ giúp giảm thời gian chờ đợi và cạnh tranh mà còn tạo điều kiện tăng tốc độ triển khai các hạng mục thi công.
Hơn thế nữa, chia nhỏ dự án giúp giảm thiểu các rủi ro về mặt kỹ thuật, quản lý, và tài chính. Nếu một dự án thành phần gặp vấn đề, những phần khác vẫn có thể tiếp tục mà không bị ảnh hưởng. Điều này tạo sự linh hoạt trong việc giải quyết các khó khăn phát sinh và không làm gián đoạn tiến độ tổng thể.
Giải phóng mặt bằng được đẩy nhanh bằng nhiều chính sách thông thoáng
Quá trình triển khai các dự án hạ tầng giao thông thời gian qua cho thấy việc triển khai chậm đối với công tác giải phóng mặt bằng, di dời hạ tầng kỹ thuật là một trong các nguyên nhân ảnh hưởng đến tiến độ triển khai, hoàn thành đưa công trình vào sử dụng, làm tăng tổng mức đầu tư.
Để giải quyết vấn đề nêu trên, Bộ GTVT đề xuất cơ chế, chính sách cụ thể như sau:
Tập đoàn điện lực Việt Nam chủ trì tổ chức thực hiện Tiểu dự án hoặc các Tiểu dự án đối với công tác di dời công trình điện có điện áp từ 110KV trở lên.
Trên cơ sở hồ sơ thiết kế sơ bộ trong Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi của Dự án đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có Dự án đi qua được xây dựng trước khu tái định cư cho Dự án đồng thời với quá trình lập Báo cáo nghiên cứu khả thi của Dự án.
Cho phép người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng chỉ định thầu đối với các gói thầu tư vấn, phi tư vấn, xây lắp thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng. Trình tự, thủ tục chỉ định thầu thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
Việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện giải phóng mặt bằng, di dời công trình hạ tầng kỹ thuật là chìa khóa giúp Dự án đường sắt tốc độ cao sớm về đích, sớm đưa vào khai thác, phát huy hiệu quả.
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, Quốc hội đã ban hành một số Nghị quyết cho phép áp dụng chính sách về chỉ định thầu để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án như: Nghị quyết của Quốc hội số 56/2022/QH15 ngày 16/6/2022 phê duyệt chủ trương đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 – Vùng Thủ đô Hà Nội và số 57/2022/QH15 ngày 16/6/2022 phê duyệt chủ trương đầu tư xây dựng đường Vành đai 3 – thành phố Hồ Chí Minh.
Trong năm 2022 và 2023, khoảng 26 gói thầu thực hiện chỉ định thầu theo cơ chế được Quốc hội thông qua, trong đó chủ yếu áp dụng đối với các gói thầu tư vấn trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư đã góp phần đẩy nhanh công tác chuẩn bị đầu tư khoảng 04 tháng, đẩy nhanh tiến độ, đảm bảo khởi công các dự án trên.
“Vì vậy, việc ban hành các chính sách đặc biệt, ưu tiên cho lĩnh vực giải phóng mặt bằng sẽ đảm bảo dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam được triển khai suôn sẻ, từ đó giúp dự án hoàn thành đúng hoặc sớm hơn dự kiến”, Bộ GTVT nhấn mạnh.
Được áp dụng 19 chính sách đặc thù?
Để thực hiện thành công và sớm hoàn thành toàn bộ dự án như tiến độ dự kiến, trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành trung ương khóa XIII, Dự án đề xuất các chính sách nhằm mục tiêu: đảm bảo khả thi và đẩy nhanh tiến độ thực hiện; huy động nguồn lực đầu tư; phân cấp, phân quyền đầu tư; đào tạo nguồn nhân lực; phát triển công nghiệp.
Nội dung các chính sách đặc thù, đặc biệt áp dụng cho dự án cụ thể như sau:
Về cơ cấu nguồn vốn cho Dự án; Về bố trí vốn và và điều chỉnh kế hoạch đầu tư công để bố trí vốn cho dự án; Về việc thẩm định khả năng cân đối vốn cho dự án; Về phát triển, khai thác quỹ đất và giá trị tăng thêm từ đất vùng phụ cận ga đường sắt tốc độ cao; Về khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ dự án; Về bãi đổ chất thải rắn xây dựng; Phát triển khoa học, công nghệ và tuyển dụng đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực cho dự án; Về phát triển công nghiệp và chuyển giao công nghệ; Về việc phân chia dự án thành phần; Về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, điều chỉnh dự án; Về lựa chọn phương án kiến trúc nhà ga thuộc dự án; Về công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng; Về lập thiết kế kỹ thuật tổng thể (FEED) thay cho thiết kế cơ sở trong báo cáo nghiên cứu khả thi dự án; Về chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác và tạm sử dụng rừng; Về định mức, khoản mục chi phí; Việc bố trí vốn cho dự án;
Cơ chế, chính sách đảm bảo quốc phòng, an ninh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Về ban hành Nghị quyết chứa quy phạm pháp luật để hướng dẫn triển khai các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt của dự án; Về bổ sung cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt sau khi Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư của dự án.
Những chính sách đặc thù này giúp tạo điều kiện thuận lợi, tăng cường hiệu quả quản lý và triển khai, đồng thời giảm thiểu những khó khăn pháp lý, kỹ thuật, tài chính và xã hội có thể phát sinh trong quá trình thực hiện dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam.
Dự án Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam được Chính phủ trình hôm 19/10, Ủy ban Kinh tế sẽ phối hợp với các cơ quan của Quốc hội thẩm tra kỹ lưỡng nội dung này.
Dự kiến Quốc hội sẽ nghe tờ trình về Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam vào sáng ngày 13/11, sau đó sẽ thảo luận tại tổ vào chiều cùng ngày và thảo luận hội trường vào ngày 20/11. Nếu được đồng thuận cao, Quốc hội sẽ được biểu quyết thông qua chủ trương vào ngày bế mạc (30/11).